Những triệu chứng của sốc nhiệt, hậu quả và cách xử lý
Nội dung chia sẻ được thực hiện bởi Ban quản trị “Hội những người thích chạy đường dài” (LDR) tổ chức biên dịch và tổng hợp tài liệu về sốc nhiệt do gắng sức nhằm giúp các vận động viên chạy bộ, các ban tổ chức giải chạy, đội ngũ tình nguyện viên, cổ động viên,… nhận thức được mức độ trầm trọng của tình trạng này cũng như nắm được biện pháp phòng ngừa và xử trí phù hợp.
1. Sốc nhiệt là gì?
Sốc nhiệt là tình trạng gây ra bởi cơ thể quá nóng, thường do tiếp xúc kéo dài hoặc gắng sức ở nhiệt độ cao. Đây là hình thái tổn thương do nhiệt nghiêm trọng nhất.
Chẩn đoán sốc nhiệt khi nhiệt độ trung tâm cơ thể tăng quá 40 độ C, đi kèm các rối loạn về tri giác và ý thức.
2. Phân loại sốc nhiệt
Sốc nhiệt chia thành hai loại:
- Sốc nhiệt không do gắng sức (sốc nhiệt kinh điển): thường xảy ra sau tiếp xúc với thời tiết nóng và ẩm, đặc biệt là trong thời gian dài, ví dụ hai hoặc ba ngày. Thường gặp nhất ở người cao tuổi, trẻ em, và những người có bệnh lý mãn tính.
- Sốc nhiệt do gắng sức (Exertional Heat Stroke, viết tắt EHS): gây ra bởi tăng nhiệt độ cơ thể liên quan tới hoạt động thể lực với cường độ cao trong thời tiết nóng. Bất cứ ai luyện tập hoặc làm việc trong thời tiết nóng đều có thể bị sốc nhiệt do gắng sức, nhưng thường gặp nhất là vận động viên trẻ, quân nhân, công nhân lao động trong nhiệt độ cao.
>>> Kiểm tra y tế từng "cứu" một cựu trợ lý FIFA của Việt Nam
>>> Những cái chết đáng tiếc của các trọng tài từng gây sốc trên thế giới
>>> Đường biên tạm biệt anh, người cầm cờ giữa lằn ranh công lý
3. Triệu chứng
- Nhiệt độ trung tâm
Lưu ý rằng không có thiết bị đo nhiệt ngoài cơ thể nào hiện nay được chứng minh có thể đo chính xác nhiệt độ trung tâm của vận động viên vận động trong trời nóng và đang bị tăng thân nhiệt. Các thiết bị đo nhiệt ngoài cơ thể, bao gồm đo qua đường miệng, màng nhĩ, thái dương, miếng dán trên trán, nách, không thể dùng để chẩn đoán EHS. Loại nhiệt kế chính xác nhất trong trường hợp này là loại nhiệt kế đo qua đường hậu môn để đo nhiệt độ trực tràng.
- Rối loạn chức năng thần kinh trung ương
Rối loạn chức năng thần kinh trung ương có thể biểu hiện ở nhiều mức độ, bao gồm: mất định hướng, đau đầu, hành vi không thích hợp, kích thích, cảm xúc không ổn định, lẫn lộn, thay đổi nhận thức, hôn mê hoặc co giật...
Một quan niệm sai lầm là VĐV bệnh nhân bị sốc nhiệt vẫn tỉnh táo thì nghĩa là mọi việc vẫn ổn. Rất nhiều VĐV sắp rơi vào tình trạng EHS ban đầu vẫn có vẻ tỉnh táo, nhưng thực ra lại sắp tiến triển thành bệnh trạng nặng hơn. Quá trình bệnh khởi phát mà thần kinh vẫn đang tỉnh táo này có thể làm cho các nhân viên y tế đánh giá sai tình hình và làm cho chẩn đoán trở nên không rõ ràng hoặc bị chậm trễ. Giai đoạn minh mẫn này (gọi là khoảng tỉnh) thường trùng khớp với một tình trạng rối loạn chức năng nhỏ trong hệ thần kinh trung ương rất khó nhận ra.
- Các tổn thương khác
Các biểu hiện lâm sàng khác rất đa dạng. Đa số VĐV có nhịp tim nhanh và tụt huyết áp. Ngoài ra có thể có nhịp thở nhanh, chóng mặt, nôn, buồn nôn, tiêu chảy, yếu chân tay, vã mồ hôi như tắm, mất nước, khô miệng, khát, chuột rút, mất chức năng của cơ, lảo đảo mất thăng bằng. Một số tài liệu mô tả các vận động viên sẽ ngừng ra mồ hôi khi họ bắt đầu bị sốc EHS. Điều này là không chính xác. Vì EHS xảy ra trong khi đang tập cường độ cao trong trời nóng, các vận động viên hầu hết đều tiếp tục ra mồ hôi ồ ạt khi quỵ ngã. Quan niệm phổ biến nhưng hoàn toàn sai lầm này về EHS có thể làm chậm việc chẩn đoán phát hiện ra bệnh và làm tăng mức độ nguy hiểm của bệnh.
Sốc nhiệt là một tổn thương đa cơ quan, không chỉ rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương (bệnh não) mà còn tổn thương các mô và cơ quan khác (ví dụ, tổn thương thận cấp, tổn thương gan, tiêu cơ vân) đi kèm với thân nhiệt cao. Thương tật và tử vong do EHS là hậu quả trực tiếp của thiếu máu và phản ứng oxy hoá – nitro hoá. Tiên lượng sẽ xấu hơn khi chậm làm mát và thân nhiệt bị duy trì ở mức nguy hiểm từ 40.5 đến 41 độ C.
- Biến chứng của sốc nhiệt do gắng sức
EHS có thể dẫn tới một số biến chứng trong quá trình hồi sức và nằm viện sau đó. Các biến chứng này có thể là kết quả trực tiếp của các tổn thương liên quan đến nhiệt hoặc bệnh kèm theo, ví dụ rối loạn nước và điện giải và đáp ứng viêm toàn thân kéo dài.
Các biến chứng quan trọng cần cảnh giác ở bệnh nhân EHS bao gồm các tình trạng dưới đây:
+ Rối loạn điện giải và chuyển hoá (ví dụ, tăng hoặc giảm kali máu, tăng hoặc giảm natri máu, hạ đường máu, hạ phospho máu, hạ magie máu và hạ canxi máu)
+ Co giật (có thể thứ phát sau rối loạn điện giải và cần phải điều chỉnh, hạ đường huyết, tổn thương não, áp lực tưới máu não không thích hợp, hoặc nguyên nhân khác). Vì vậy, trong khi đang tìm nguyên nhân, cần bắt đầu điều trị ngay bằng thuốc an thần.
+ Mê sảng kích thích (thường thoáng qua và là hậu quả của tăng thân nhiệt, nhưng có thể thứ phát do hạ đường máu, áp lực tưới máu não không thích hợp, tổn thương não, hoặc nguyên nhân khác). Có thể điều trị bằng thuốc an thần tác dụng ngắn.
+ Suy hô hấp; hội chứng suy hô hấp cấp.
+ Tiêu cơ vân
+ Tổn thương thận cấp (thường đi kèm với tiêu cơ vân). Cần xem xét lọc thận càng sớm càng tốt nếu thấy nguy cơ
+ Tổn thương gan
+ Đông máu nội mạch rải rác (DIC)
+ Xuất huyết tiêu hoá và tổn thương ruột do thiếu máu
+ Tổn thương cơ tim, rối loạn nhịp tim (nhìn chung hồi phục nếu nhanh chóng làm mát, bù dịch và điều chỉnh rối loạn điện giải)
Nguy cơ suy đa phủ tạng và tử vong do EHS phụ thuộc và mức độ khẩn trương của việc chẩn đoán và làm mát. Nếu điều trị sớm, tổn thương tim mạch do EHS thường phục hồi trong vòng vài giờ. Các chỉ số sinh học của tổn thương gan (ví dụ, tăng men gan) có thể tăng cao trong 24 đến 48 giờ trước khi giảm về bình thường, và có thể cần đến vài tuần hoặc tháng tuỳ thuộc mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Tổn thương thận có thể mất đến vài tuần để hồi phục. Các chỉ số tổn thương cơ đi kèm với tiêu cơ vân (creatine kinase, myoglobin) có thể tăng trong vòng 24 đến 96 giờ trước khi bắt đầu giảm, và có thể mất vài tuần để trở về nồng độ bình thường, phụ thuộc vào độ nặng của tổn thương.
3. Xử trí sốc nhiệt do gắng sức
Hai nguyên tắc cơ bản của xử trí sốc nhiệt do gắng sức là:
+ Mức độ nghiêm trọng của sốc nhiệt có thể không rõ ràng tại thời điểm ban đầu
+ Tình trạng bệnh và tỷ lệ tử vong liên quan trực tiếp tới khoảng thời gian nhiệt độ trung tâm cơ thể tăng cao.
Vì thế, xử trí sốc nhiệt tốt bao gồm cả xử trí tại hiện trường lẫn điều trị trong bệnh viện, trong đó hạ nhiệt nhanh là tối quan trọng. Nếu không xử trí kịp thời, sốc nhiệt có thể dẫn tới các biến chứng nặng như tiêu cơ vân, suy thận cấp, suy gan cấp, rối loạn đông máu nội mạch rải rác. Ngay cả với những VĐV chưa có tổn thương cơ quan đích (hệ thần kinh trung ương, gan, thận,…), thân nhiệt trung tâm tăng cao > 40ºC cũng là một dấu hiệu cần đặc biệt lưu ý và cần xử trí kịp thời.
- Đánh giá nhanh tại hiện trường
Biện pháp đầu tiên là đánh giá và kiểm soát đường thở, nhịp thở, tuần hoàn (bắt mạch, đo nhịp tim).
- Đánh giá toàn trạng và ý thức của VĐV.
Đo các dấu hiệu sinh tồn gồm mạch, huyết áp, và nhiệt độ ở trực tràng. Chỉ có nhiệt độ trực tràng mới phản ánh trung thành nhiệt độ trung tâm cơ thể.
Chẩn đoán sốc nhiệt khi nhiệt độ trung tâm cơ thể cao ≥ 40°C trong hoàn cảnh có rối loạn ý thức, tri giác. Lúc này, người bệnh cần phải được hạ nhiệt gấp.
Nếu nhân viên y tế có mặt tại chỗ, có sẵn các thiết bị cần thiết để hạ nhiệt tích cực (như bể nước đá, khăn lạnh, xô nước lạnh) và không cần phải điều trị cấp cứu nào khác ngoài việc hạ thân nhiệt gấp, tốt nhất là nên theo nguyên tắc “hạ nhiệt trước, vận chuyển sau”. Khi đã hạ nhiệt đến nhiệt độ hợp lý (38,9°C), bệnh nhân được chuyển gấp tới cơ sở cấp cứu gần nhất.
Nếu không đủ điều kiện hạ nhiệt tại chỗ, đặc biệt là nếu bệnh nhân có các vấn đề khác (như co giật) yêu cầu can thiệp y tế, bệnh nhân cần được chuyển ngay lập tức tới cơ sở cấp cứu gần nhất. Việc hạ nhiệt có thể được thực hiện trong khi vận chuyển với cách hạ nhiệt hiệu quả nhất có thể.
- Biện pháp làm mát
Hạ nhiệt gấp là chiến lược hiệu quả nhất để cải thiện thương tật và tỷ lệ tử vong do sốc nhiệt. Cần tiến hành hạ nhiệt ngay khi có thể và trong vòng 30 phút từ khi có biểu hiện triệu chứng.
Các bước chính bao gồm:
+ Kích hoạt hệ thống cấp cứu ngay lập tức. Gọi nhân viên y tế, gọi 115. Nếu nhân viên y tế có mặt tại chỗ và không có tình trạng cấp cứu y tế nào khác ngoài sốc nhiệt, hạ nhiệt trước rồi mới vận chuyển bất kỳ khi nào có thể.
+ Tháo bỏ tất cả các thiết bị trên người VĐV, cởi hoặc nới lỏng quần áo (để giúp cơ thể thải nhiệt nhanh hơn)
+ Đưa VĐV tới chỗ có bóng râm. Có thể đưa vào phòng điều hoà nhiệt độ
+ Ngâm VĐV vào bể nước đá để hạ nhiệt khẩn cấp
+ Ngâm VĐV trong bể nước đá là biện pháp hạ nhiệt nhanh nhất, hiệu quả nhất. Nếu có sẵn bể nước đá, ngâm vận động viên trong bồn nước đá (càng lạnh càng tốt); nhiệt độ nước cần từ 2°C đến 15°C.
+ Đổ nước và đá lạnh lên đến lưng bồn tắm hoặc bể vầy. Đá lạnh nên đủ nhiều để luôn luôn phủ kín được toàn bộ bề mặt mặt nước.
+ Đặt VĐV vào bồn nước đá. Phủ cơ thể bằng nước đá càng kín càng tốt. Nếu việc phủ kín toàn thân không thể thực hiện được, thì ưu tiên phủ phần thân người càng nhiều càng tốt (trừ đầu và chân tay).
Chú ý giữ phần đầu và cổ vận động viên trên mặt nước. Một hoặc hai người hỗ trợ có thể thực hiện việc này bằng cách luồn khăn hoặc vải dài dưới nách và quanh trước ngực người bệnh để giữ.
Tiến hành khuấy nước mạnh trong quá trình làm mát
Trong quá trình điều trị bằng nước đá, liên tục theo dõi nhiệt độ bên trong cơ thể của người bệnh bằng nhiệt kế hậu môn (nhiệt kế thân mềm, nằm thường xuyên tại vị trí đo trong suốt quá trình làm mát cơ thể).
Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn khoảng 10 phút một lần, và kiểm tra tình trạng tri giác liên tục trong quá trình làm mát.
Nên gọi thêm người hỗ trợ sẵn sàng ở gần đó để phòng trường hợp người bệnh kháng cự hoặc cần được nâng lên hay xoay trở nếu có nôn trớ.
Tiếp tục làm mát cho tới khi nhiệt độ trung tâm hạ tới 39 độ C. Nếu không thể đo được nhiệt độ qua hậu môn hoặc phép đo bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ của nước lạnh đang ngâm, thì thực hiện làm mát trong khoảng từ 10 đến 15 phút, sau đó vận chuyển tới nơi cấp cứu. Làm mát bằng ngâm nước đá thường đạt được hiệu quả giảm khoảng 1 độ C mỗi 5 phút, nếu như nước được khuấy liên tục.
Nước đá là lý tưởng nhất nhưng nếu không sẵn thì dùng nước thường cũng được, giữ nhiệt độ nước lạnh hợp lý; khuấy nước mạnh trong quá trình hạ nhiệt.
Nếu không có đủ điều kiện để ngâm nước đá, mà tại hiện trường có biện pháp làm mát khác, thì cố gắng làm mát người bệnh bằng phương pháp tốt nhất có thể. Ví dụ như các cách sau:
Cho đá, nước và 12 chiếc khăn vào một thùng giữ nhiệt. Đặt sáu chiếc khăn nhúng nước đá lạnh trên cơ thể người bệnh, để nguyên như vậy trong khoảng từ hai đến ba phút rồi lại cho các khăn đó vào thùng nước đá, và thay các khăn đang ngâm trong thùng lên người bệnh nhân. Thực hiện thay khăn liên tục như vậy từ hai đến ba phút.
Liên tục dội nước lạnh cho bệnh nhân bằng vòi phun, xô nước,…
Nếu có đá nhưng không có bồn, thì đặt bệnh nhân vào một miếng vải lớn kiểu khăn trải giường, phủ lên người bệnh nhân bằng đá lạnh rồi quấn khăn lại. Thay đá mới ngay khi đá tan bớt.
Áp khăn ướt, lạnh tiếp xúc với cơ thể nhiều nhất có thể. Khăn lạnh cần được thay thế ngay khi nó hết lạnh hoặc sau mỗi hai đến ba phút.
Áp túi đựng nước đá vào cổ, nách, bẹn (các vùng có mạch máu lớn đi qua), đồng thời phun nước ấm lên người bệnh nhân và sử dụng quạt để thổi gió qua da ẩm (hạ nhiệt bằng bay hơi). Cần phun nước khi cần và quạt liên tục.
Liên tục theo dõi các chỉ số dấu hiệu sinh tồn (nhiệt độ trực tràng, nhịp tim, nhịp hô hấp, huyết áp) và tình trạng tinh thần. Đảm bảo an toàn cho bệnh nhân trong mọi thời điểm.
Ngừng hạ nhiệt khi nhiệt độ trực tràng xuống còn 38.3°C đến 38.9°C.
Lưu ý rằng ban đầu tốc độ hạ nhiệt sẽ chậm, nhưng bệnh nhân được điều trị càng lâu, tốc độ hạ nhiệt sẽ nhanh dần. Một số người lo ngại ngâm nước lạnh gây nguy cơ đuối nước cho người bệnh Với các biện pháp đề phòng hợp lý, thì hầu như không có nguy cơ đuối nước. Các biện pháp đề phòng gồm có: giám sát bệnh nhân toàn thời gian, kêu gọi thêm người giúp đỡ, và luồn khăn dưới nách người bệnh, vòng qua trước ngực để giữ họ ngồi ngay ngắn, tránh được việc đầu bệnh nhân bị ngập dưới nước.
Mặc dù các tình trạng kém vệ sinh có thể xảy ra, ví dụ do nôn trớ hay tiêu chảy, nhưng một bồn nước mất vệ sinh vẫn là một biện pháp đánh đổi chấp nhận được khi thực hiện một biện pháp giữ mạng sống cho người bệnh. Bồn bẩn thì có thể làm sạch lại dễ dàng.
Không có bằng chứng chứng minh hiệu quả của việc truyền nước lạnh qua đường tĩnh mạch hay làm lạnh dạ dày qua ống thông dạ dày.
- Theo dõi nhiệt độ của vận động viên
KHÔNG sử dụng các phương pháp đo nhiệt độ cơ thể khác (như đo nhiệt độ từ miệng, ống tai, màng nhĩ, nách, thái dương, trán), ngay cả khi không có nhiệt kế trực tràng. Các phương pháp đo nhiệt khác KHÔNG phản ánh trung thành nhiệt độ trung tâm cơ thể của VĐV bị sốc nhiệt và có thể gây sai lạc. Nếu không có nhiệt kế trực tràng khi điều trị EHS, chúng tôi khuyến nghị hai lựa chọn:
Hạ nhiệt cho đến khi bệnh nhân bắt đầu run
Xử lý bằng ngâm trong nước đá từ 15 đến 20 phút. Điều này sẽ hạ nhiệt đa số các bệnh nhân từ 3°C đến 4°C, và đủ điều kiện để đưa bệnh nhân ra khỏi bồn đá trong đa số trường hợp.
Nguồn: Hội những người thích chạy đường dài LDR (https://www.facebook.com/groups/LDRvn) và Chay365.com